Bong Joon-ho là một nam đạo diễn, nhà biên kịch kiêm nhà sản xuất điện ảnh người Hàn Quốc. Ông bắt đầu sự nghiệp của mình vào năm 1994 sau khi thực hiện các bộ phim ngắn lần lượt là White Man,[1]Memories in My Frame,[2] và Incoherence.[3] Năm 1997, Bong viết kịch bản đầu tay cho Motel Cactus, bộ phim điện ảnh mà chính ông cũng được đảm nhận vị trí trợ lý đạo diễn.[4] Hai năm sau, ông viết kịch bản cho bộ phim Phantom: The Submarine,[5] và đến năm tiếp theo, ông chào sân với tư cách là đạo diễn qua tác phẩm điện ảnh đầu tay mang tên Barking Dogs Never Bite (2000).[6] Những năm tiếp theo, Bong đã viết kịch bản và đạo diễn những tác phẩm điện ảnh được giới chuyên môn khen ngợi rộng rãi, bao gồm Hồi ức kẻ sát nhân (2003), Quái vật sông Hàn (2006), Người mẹ (2009) và Chuyến tàu băng giá (2013).[7]
Sau khi thực hiện tác phẩm Biển sương mù (2014), Bong đảm nhận viết kịch bản, đạo diễn và sản xuất cho Siêu lợn Okja (2017), bộ phim sau này được đề cử giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Canneslần thứ 70.[8] Khi đang thực hiện bộ phim Chuyến tàu băng giá, Bong được một người bạn khuyến khích viết một vở kịch, mà sau này chính là nguồn cảm hứng để ông làm nên và ra mắt tác phẩm Ký sinh trùng (2019).[9] Tác phẩm không những được giới phê bình phim quốc tế nhiệt liệt khen ngợi, mà còn giành được vô số giải thưởng cao quý, trong đó có giải Cành cọ vàng và giải Oscar cho Phim hay nhất. Ngoài ra, với tác phẩm này, Bong còn giành được giải Oscar cho Đạo diễn xuất sắc nhất, qua đó giúp ông trở thành nhà làm phim uyên bác trên toàn thế giới.[10][11]
^ ab“Baeksekin – International Film Festival Entrevues Belfort” ["White Man – Liên hoan phim quốc tế Belfort"]. Entrevues Belfort Film Festival. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021.
^ ab“Memories in My Frame (1994)”. British Film Institute. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021.
^ ab“Incoherence Bong Joon Ho IFFR 2009 30”. International Film Festival Rotterdam. 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021.
^ ab“Motel Cactus – 모텔 선인장”. London Korean Film Festival. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021.
^ abPaquet, Darcy (14 tháng 2 năm 2008). “The Bong Joon-ho Page” ["Trang về Bong Joon-ho"]. Koreanfilm.org. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021.
^Taylor, Drew (15 tháng 7 năm 2020). “Every Bong Joon-ho Movie, Ranked from Least Amazing to Positively Transcendent” ["Tất cả các bộ phim của Bong Joon-ho, từ ít xuất sắc đến cực kì xuất sắc nhất"]. Collider. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2021.
^Hilden, Nick (12 tháng 2 năm 2020). “The Untold Truth Of Bong Joon Ho” ["Những sự thật chưa kể về Bong Joon-ho"]. Looper. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2021.
^Pulver, Andrew (25 tháng 5 năm 2019). “Bong Joon-ho's Parasite wins Palme d'Or at Cannes film festival” ["Siêu phẩm 'Ký sinh trùng' của Bong Joon-ho giành giải Cành cọ vàng tại liên hoan phim Cannes"]. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2021.
^Brzeski, Patrick (8 tháng 11 năm 2019). “Making of 'Parasite': How Bong Joon Ho's Real Life Inspired a Plot-Twisty Tale of Rich vs. Poor” ["Quá trình làm phim 'Ký sinh trùng': Cuộc sống ngoài đời thực của Bong Joon-ho được truyền cảm hứng như thế nào cho một câu chuyện giữa giàu và nghèo có nội dung phức tạp"]. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2021.
^Tan, Sandi (27 tháng 1 năm 2020). “Parasite Power: Director Bong Joon Ho on His Edgy Oscar Contender” ["Sức mạnh của Ký sinh trùng: Đạo diễn Bong Joon-ho nói về những ứng cử viên Oscar sắc sảo của ông"]. Vanity Fair. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2021.
^Sang-hun, Choe (10 tháng 2 năm 2020). “Oscar for 'Parasite' Quenches Koreans' Long Thirst for Recognition” ["Giải Oscar cho 'Ký sinh trùng' đã làm dịu đi cơn khát được công nhận từ lâu của người Hàn Quốc"]. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2021.
^Bradshaw, Peter (17 tháng 9 năm 2020). “Barking Dogs Never Bite review – Bong Joon-ho's canine satire has teeth” ["Đánh giá phim 'Barking Dogs Never Bite' (Chó sủa không cắn) – màn châm biếm đầy nanh sắc của Bong Joon-ho"]. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021.
^Tallerico, Brian (19 tháng 10 năm 2020). “Memories of Murder movie review (2020)” ["Đánh giá phim 'Hồi ức kẻ sát nhân' (2020)"]. RogerEbert.com. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021.
^X (15 tháng 8 năm 2005). “[K-Film Reviews] 남극일기 (Antarctic Journal)” ["[K-Films đánh giá] Hành trình ở Nam Cực (Antarctic Journal)"]. Screen Anarchy. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021.
^Wilkinson, Alissa (19 tháng 2 năm 2020). “Long before Parasite, Bong Joon-ho was skewering bloodsucking social systems in 2006's The Host” ["Rất lâu trước khi có 'Ký sinh trùng', Bong Joon-ho đã làm lệch hướng các hệ thống xã hội hút máu trong 'Quái vật sông Hàn' vào năm 2006"]. Vox. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021.
^Rife, Katie (23 tháng 10 năm 2020). “Bong Joon Ho's Mother finds a Hitchcock disciple at his most Hitchcockian” ["'Người mẹ' của Bong Joon-ho đã tìm được đệ tử đúng chất phong cách Hitchcock của mình"]. The A.V. Club. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021.
^Sharf, Zack (8 tháng 10 năm 2019). “Bong Joon Ho Duped Harvey Weinstein With a Hilarious Lie to Save 'Snowpiercer' Scene” ["Bong Joon-ho đã lừa Harvey Weinstein bằng một lời nói dối vui nhộn để cứu cảnh trong phim 'Chuyến tàu băng giá'"]. IndieWire. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021.
^MacDonald, Joan (10 tháng 9 năm 2020). “'Sea Fog' To Get American Remake With Bong Joon-Ho As Producer” ["'Biển sương mù' sẽ được làm lại ở Mỹ với Bong Joon-ho làm nhà sản xuất"]. Forbes. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021.
^Scott, A.O. (27 tháng 6 năm 2017). “Review: In 'Okja,' a Girl and Her Pig Take on the Food Industrial Complex” ["Đánh giá: Trong 'Siêu lợn Okja', một cô bé và con lợn của cô ấy tham gia vào khu liên hợp công nghiệp thực phẩm"]. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021.
^Jung E., Alex (7 tháng 10 năm 2019). “Korean Director Bong Joon-ho on His New Film 'Parasite'” ["Đạo diễn người Hàn Quốc Bong Joon-ho với bộ phim mới của ông, 'Ký sinh trùng'"]. Vulture. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021.
^Rubin, Rebecca (19 tháng 1 năm 2022). “Bong Joon Ho Sets Next Movie at Warner Bros. With Robert Pattinson in Talks to Star” ["Bong Joon Ho thiết lập bộ phim tiếp theo tại Warner Bros., với Robert Pattinson đang đàm phán để vào vai"]. Variety. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2022.
^“Sink & Rise”. Le Cinéma Club. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021.
^“Digital Short Films by Three Filmmakers” ["Những bộ phim ngắn kỹ thuật số của ba nhà làm phim"]. Torino Film Festival. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021.
^Bradshaw, Peter. “Tokyo!”. Cannes Film Festival. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021.
^管理者 (5 tháng 6 năm 2020). “What is 3.11 A Sense of Home Films?”. Nara International Film Festival. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2021.
^Cremona, Patrick (22 tháng 5 năm 2020). “Snowpiercer: how different is the TV series to Bong Joon-ho's 2013 film?” ["'Chuyến tàu băng giá': Loạt phim truyền hình trông khác biệt như thế nào so với bản gốc năm 2013 của Bong Joon-ho?"]. Radio Times. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2021.
^“Dan (2000)”. MUBI. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2021.
^“Lonely Street Lamp (2003)”. MUBI. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2021.
^“지리멸렬” [Incoherence] (bằng tiếng Hàn). Korean Movie Database. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2021.
^ abcdLee, Nam (29 tháng 9 năm 2020). The Films of Bong Joon Ho. Rutgers University Press. tr. 254. ISBN 978-1-9788-1890-3.
^“Kurosawa's Way”. Fajr International Film Festival. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2021.
^“Lonely Street Lamp (2003)”. MUBI. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2021.
^“Last Train to Seoul”. Beall Production. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2021.
^Nữ Lâm (9 tháng 11 năm 2023). “Đạo diễn Parasite và những hồi tưởng chân trời sau cánh cửa vàng”. Báo Tuổi Trẻ. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2023.
^“Joon-ho Bong”. Rotten Tomatoes. Fandango Media. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2021.
^“Joon-ho Bong”. Metacritic. CBS Interactive. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2021.
"Sự nghiệp điện ảnh của Bong Joon-ho" là một danh sách chọn lọc của Wikipedia tiếng Việt. Mời bạn xem phiên bản đã được bình chọn vào ngày 2 tháng 3 năm 2023 và so sánh sự khác biệt với phiên bản hiện tại.